Đường hô hấp bắt đầu từ mũi đến phế nang trong phổi. Đường hô hấp được chia thành đường hô hấp trên và đường hô hấp dưới. Không khí từ môi trường bên ngoài theo đường dẫn khí tiếp xúc với màng phế nang. Trong quá trình dẫn khí, khí hít vào được làm ấm, ẩm, lọc nhờ hệ thống đường hô hấp trên. Hệ thống đường hô hấp dưới tiếp tục dẫn khí đến phế nang, thực hiện nhiệm vụ trao đổi khí. Trong đó, đường hô hấp dưới gồm khí quản, phế quản và phổi.
1. Cấu tạo của đường hô hấp dưới
1.1. Khí quản
Khí quản tiếp với thanh quản và nằm trên đường giữa. Đây là một ống dẫn khí nằm ở cổ và ngực, gồm 16 đến 20 sụn khí quản. Ở người trưởng thành, khí quản dài khoảng 12 cm, đường kính khoảng 2,5 cm. Có thể co giãn 50% chiều dài, đường kính trung bình của khí quản thay đổi theo độ tuổi. Sụn khí quản hình chữ C nối nhau bởi dây chằng vòng, đóng kín phía sau bởi cơ trơn. Các cơ giúp nâng đỡ, vòng sụn không bị xẹp xuống khi thay đổi áp suất không khí lúc hít vào, thở ra.
Cấu tạo các lớp
Chủ yếu bởi lớp sụn trong. Bên ngoài có lớp mô liên kết thưa bao phủ, trong cùng là niêm mạc.
Cấu tạo: phế quản gồm một lớp sợi sụn, một lớp cơ mỏng, trong cùng là lớp niêm mạc.
1.3. Tiểu phế quản
Khi phế quản vào phổi, chúng bắt đầu phân nhánh nhỏ xa hơn, thành các đường dẫn khí nhỏ.
Phế quản có hình nhánh cây, có nhiệm vụ đưa không khí lưu thông từ ngoài vào phế nang và ngược lại.
Sự phân chia của cây phế quản: phế quản chính – phế quản thùy – phế quản phân thùy – phế quản hạ phân thùy – phế quản tiểu thùy – tiểu phế quản tận cùng.
1.4. Phổi – phế nang
Phổi là cơ quan có nhiệm vụ chính là trao đổi khí từ môi trường bên ngoài đưa vào qua hệ thống đường dẫn khí và máu trong hệ thống động mạch phổi. Sự trao đổi khí này hình thành vòng tiểu tuần hoàn trong cơ thể.
Phổi nằm trong lồng ngực, áp sát thành ngực cùng với màng phổi. Có phổi trái và phổi phải. Khoảng không gian bên trong giữa hai phổi gọi là trung thất. Trung thất chứa tim, các mạch máu lớn từ tim, thực quản, tuyến ức… Mỗi phổi có hình nón gồm một đáy, một đỉnh, hai mặt và hai bờ. Đáy phổi có dạng vòm, áp sát lên vòm hoành, ngăn giữa phổi và các bộ phận trong ổ bụng như gan, dạ dày, lá lách… Đỉnh phổi ngang mức đầu sau xương sườn I, phía trước trên phần trong của xương đòn khoảng 3 cm. Hai mặt (sườn, trung thất), 2 bờ (trước, dưới) được bao bọc bởi xương sườn xung quanh.
Phổi được bao bọc bởi hai màng mỏng gọi là màng phổi. Màng này tiết dịch nhờn cho phép phổi di chuyển tự do trong khoang màng phổi. Điều này giúp phổi có thể co giãn trong quá trình hít vào, thở ra.
Phổi được cấu tạo bởi các thùy. Đơn vị cấu tạo cuối cùng của phổi là các phế nang. Thông thường, phổi phải to hơn phổi trái. Phổi phải chứa 3 thùy, phổi trái chỉ chứa 2 thùy, cho phép có chỗ cho tim.
Chức năng
Chức năng chính của phổi là trao đổi khí, đem O2 từ không khí vào tĩnh mạch phổi và CO2 từ động mạch phổi ra ngoài. Máu vận chuyển oxy trong phổi cung cấp cho tim, đồng thời bơm oxy đến các tế bào khắp cơ thể. Phổi cũng nhận máu có oxy từ tim để thực hiện hô hấp tế bào. Trung bình, phổi chứa được 6 lít không khí, nhưng chỉ một phần nhỏ được sử dụng thở bình thường. Phổi cũng là nơi lưu trữ máu và lọc một số độc tố trong máu.
1.5. Phế nang
Là đơn vị cấu tạo cuối cùng của phổi, được các mao mạch phổi bao bọc như một mạng lưới có chức năng thực hiện quá trình trao đổi khí. Phế nang là những túi nhỏ nằm thành từng cụm, được gọi chung là các túi phế nang.
Mỗi phế nang như một cái túi nhỏ rất mỏng manh. Chiều dày trung bình của lớp màng phế nang mao mạch này là 0,6 mm, nơi mỏng nhất là 0,2 mm. Không khí từ nhánh tận cùng của cây phế quản là các ống phế nang. Từ ống phế nang có các túi phế nang và đến các phế nang. Bề dày của lớp màng phế nang mao mạch không đáng kể. Vì vậy, trong tình trạng bình thường, khuếch tán và cân bằng rất nhanh.
Hai lá phổi có thể chứa khoảng 700 triệu phế nang. Diện tích tiếp xúc giữa phế nang và mạch máu là khoảng 70 – 90 m2.
Cơ chế trao đổi qua màng phế nang – mao mạch: là hiện tượng khuếch tán khí hoàn toàn thụ động.
Dấu hiệu viêm phổi nặng ở người lớn tuổi - nhận biết để bảo vệ tính mạng